Giá thóc gạo trong nước tăng nhanh từng ngày, lên tới 100 đồng/kg mỗi ngày
Ước tính Việt Nam xuất khẩu 4,83 triệu tấn gạo 7 tháng đầu năm
Sáng 4/8, tại TP Cần Thơ, Bộ Công Thương đã chủ trì, phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, UBND TP Cần Thơ tổ chức Hội nghị Sơ kết tình hình xuất khẩu gạo 6 tháng đầu năm 2023, bàn phương hướng điều hành xuất khẩu những tháng cuối năm 2023.
Tại hội nghị, ông Trần Duy Đông, Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương, cho biết, theo số ước của liên Bộ, ước tính đến hết tháng 7/2023, Việt Nam đã xuất khẩu 4,83 triệu tấn gạo, trị giá 2,58 tỷ USD, tăng 19% về lượng và 30% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022. Giá xuất khẩu bình quân ước đạt 534 USD/tấn, tăng hơn 9% so cùng kỳ năm 2022.
Xuất khẩu gạo tiếp tục ghi nhận sự tăng trưởng tại thị trường truyền thống, thị trường có FTA thế hệ mới, trong đó khu vực thị trường châu Á tiếp tục là thị trường khu vực xuất khẩu lớn nhất trong 6 tháng năm 2023, đạt gần 3,3 triệu tấn, chiếm gần 78% tổng lượng xuất khẩu, tăng 35,8% so với cùng kỳ năm 2022.
Một số thị trường truyền thống tiếp tục tăng trưởng tốt so với cùng kỳ năm 2022, trong đó thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam là Philippines, chiếm hơn 40% tổng lượng xuất khẩu trong 6 tháng đầu năm 2023, tương đương xuất khẩu đạt gần 1,7 triệu tấn, tăng 7% so với cùng kỳ năm 2022.
Đứng thứ hai là Trung Quốc chiếm trên 16% trong tổng lượng xuất khẩu, tương đương 677,4 nghìn tấn, tăng 61% so với cùng kỳ năm 2022. Indonesia đứng thứ 3, chiếm gần 12% trong tổng lượng xuất khẩu gạo của cả nước, tương đương 492,8 nghìn tấn, tăng 15 lần về lượng và kim ngạch so với cùng kỳ năm 2022.
Ông Đông cũng cho biết, nhu cầu nhập khẩu gạo của các thị trường tăng mạnh trong 2 quý đầu năm, trong khi nguồn cung gạo từ các quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới như Ấn Độ, Pakistan tiếp tục hạn chế.
Việc Ấn Độ ban hành lệnh cấm xuất khẩu gạo non-basmati (phi basmati) là yếu tố khiến giá gạo xuất khẩu các nước tăng mạnh, giá gạo 5% tấm của Việt Nam tăng 25 USD/tấn so với thời điểm lệnh cấm được ban hành.
Tính đến ngày 1/8, giá gạo 5% tấm của Việt Nam đạt trung bình 590 USD/tấn, mức giá cao nhất trong 11 năm qua, tăng khoảng 80 USD so với tháng trước, thấp hơn giá gạo cùng chủng loại của Thái Lan khoảng 35 USD/tấn. Đối với các dòng gạo thơm, giá xuất khẩu trung bình gạo Jasmine Việt Nam ghi nhận ở mức 690 USD/tấn, tăng khoảng 80 USD so với tháng trước.
Theo ông Đông, ngay khi có thông tin về lệnh cấm xuất khẩu gạo của Ấn Độ, giá thóc gạo trong nước tăng nhanh theo từng ngày, trung bình mỗi ngày tăng từ 50 - 100 đồng/kg.
Giá gạo nguyên liệu tại một số địa phương đã tăng từ 400 - 500 đồng/kg so với thời điểm lệnh cấm có hiệu lực (ngày 20/7). Giá một số chủng loại ghi nhận tại ngày 27/7 tăng ít nhất 500 đồng/kg so với giá ngày 20/7.
Có thể kể đến như giá gạo IR50404 đạt 10.750 đồng/kg, tăng 5% (tương đương tăng 500 đồng/kg); giá gạo OM5451 đạt 11.000 đồng/kg, tăng 5% (tương đương tăng 550 đồng/kg); giá gạo Đài Thơm 8 đạt 11.300 đồng/kg, tăng 6% (tương đương tăng 650 đồng/kg)…
Khắc phục những hạn chế để duy trì kết quả xuất khẩu gạo nửa cuối năm
Dù đã đạt được những kết quả tốt trong nửa đầu năm, nhưng theo Bộ Công Thương, xuất khẩu gạo những tháng cuối năm sẽ còn nhiều thách thức, biến động do tình trạng thiếu hụt nguồn cung lương thực toàn cầu bởi tác động từ lệnh cấm của Ấn Độ, Sáng kiến ngũ cốc Biển Đen bị đổ vỡ, biến đổi khí hậu thay đổi điều kiện gieo trồng… sẽ làm suy giảm nguồn cung và giá lương thực tăng cao.
Để tiếp tục phát huy những kết quả đạt được trong nửa đầu năm, Bộ trưởng Công Thương Nguyễn Hồng Diên cho rằng cần khắc phục những tồn tại, hạn chế và những vấn đề đặt ra trong xuất khẩu gạo.
Trong đó, có thể kết đến việc thị trường xuất khẩu gạo đang chủ yếu tập trung vào một số thị trường truyền thống, trọng điểm; chưa chú trọng khai thác các thị trường mới, còn nhiều tiềm năng. Công tác quy hoạch vùng trồng và định hướng tổ chức sản xuất lúa/gạo còn hạn chế; chưa thực sự phù hợp với tín hiệu của thị trường.
Việc thực hiện liên kết 4 nhà (Nhà nước - nhà khoa học - nhà sản xuất - ngân hàng) trong sản xuất nông nghiệp chưa tốt, vì vậy vẫn còn tình trạng sản xuất, kinh doanh nhỏ lẻ, hiệu quả thấp.
Việc tạo lập, phát triển các cơ chế liên kết, hợp tác giữa các thương nhân kinh doanh, xuất khẩu gạo với người sản xuất chưa được chú trọng, vì vậy chưa bảo đảm được nguồn hàng ổn định và có chất lượng đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của các thị trường nhập khẩu.
Việc liên kết, hợp tác giữa các thương nhân với nhau cũng chưa tốt, dẫn đến vẫn còn tình trạng tranh mua, tranh bán, tranh thị trường và ép cấp, ép giá trong hoạt động thu mua, kinh doanh, xuất khẩu gạo.
Đặc biệt, tình hình sản xuất và thương mại lương thực toàn cầu đang diễn biến phức tạp, khó lường do tác động bởi nhiều yếu tố, tình hình địa chính trị, địa kinh tế trong khu vực và thế giới. Giá gạo toàn cầu đã tăng mạnh, đạt mức giá cao nhất trong 11 năm qua, mang lại những cơ hội và thách thức đan xen cho hoạt động sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu gạo của Việt Nam.
“Việc tận dụng thời cơ về giá để đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu gạo, khai thác thị trường truyền thống và mở rộng thị trường tiềm năng cần khẩn trương, nhưng gắn với đó phải giữ được thương hiệu gạo đã xây dựng thời gian qua, đồng thời đảm bảo giữ vững an ninh lương thực quốc gia”.